Khi bình luận về bộ phim này tôi lại nhớ đến huyền thoại Bồ Đề Đạt Ma chín năm quay mặt vào vách tường (cửu niên diện bích). Ngài...
Bạn đang xem: Xuân hạ thu đông nội dung phim
Khi bình luận về bộ phim này tôi lại nhớ đến huyền thoại Bồ Đề Đạt Ma chín năm quay mặt vào vách tường (cửu niên diện bích). Ngài thiền định, chiêm nghiệm hay quán tưởng, quán chiếu có lẽ chỉ ngài là biết rõ hoặc chỉ những người sáng tạo nên huyền thoại ấy mới hiểu rõ. Sở dĩ nói vậy là vì khi xem xong bộ phim này, tôi hiểu được một số điều khi nhìn vào những điều không thể hiểu. Vì nội dung phim là một sự sáng tạo nghệ thuật mang tính tôn giáo và tính thiền rất cao. Những bình luận về bộ phim này cũng đã nhắc nhiều đến những chi tiết tượng trưng cho những công án thiền, cho sự huyền diệu của Phật giáo và sự trần tục của con người được ngăn cách bởi một cánh cửa không vách, về chân lý Tứ Diệu Đế hay về luân hồi, nhân quả cùng những giác ngộ do tự lực và tha lực mà con người ta hướng đến để vượt qua lục đạo.
Nếu kể lại vắn tắt nội dung thì bộ phim là câu chuyện về một vị sư già và một chú tiểu sống cùng nhau trên một ngôi chùa cổ nằm giữa hồ, bao quanh là rừng núi cô tịch. Mỗi mùa trôi qua là mỗi thử thách đến. Chú tiểu trưởng thành và dần lạc vào những hiếu sát, sắc dục và vô minh còn vị sư già thì tượng trưng cho Phật tính dẫn dắt học trò của mình quay về con đường sáng. Có thể đó là hình thức hồi đầu giác ngạn hoặc cũng có thể chỉ là suy nghĩ của riêng tôi.
Chú tiểu lấy đá buộc vào những con vật bé nhỏ không sức kháng cự như con rắn, con ếch rồi thích thú xem chúng khổ sở kéo những viên đá đó theo. Biết chuyện, vị sư già đã buộc chú tiểu đeo một hòn đá nặng đi tìm lại các con vật ấy và nói nếu chúng chết, chú sẽ đau khổ suốt đời. Sau đó, chú tiểu bắt gặp một trong số chúng chết, chú đã òa khóc. Vị sư già vốn hiểu lẽ cảm nhận sự đau khổ sau khi gây ra đau khổ là lẽ công bằng, hòn đá buộc bên thân thật không đáng sợ bằng hòn đá buộc trong tâm.
Khi đã trưởng thành, chú tiểu năm nào giờ là vị sư trẻ lại phải đối mặt với chính mình- lần nữa, như lời Phật dạy, kẻ thù lớn nhất đời người là chính mình. Có một cô gái trẻ được gửi lên chùa để chữa bệnh, vị sư già hứa với người mẹ sẽ chữa tâm bệnh mà cô mắc phải. Cô gái đánh thức trong vị sư trẻ ham muốn nhục dục. Ham muốn này khiến cho vị sư trẻ không thể coi như chưa có chuyện gì xảy ra để sống theo sự chỉ bảo. Nếu nói vị sư trẻ yêu thì thật là vội vàng còn nếu nói anh ta đang sống theo bản năng thì có lẽ từ trước đến giờ chưa từng có vị sư nào tồn tại. Từ động chạm ban đầu ngọn lửa dục ấy càng ngày càng trở nên dữ dội. Thái độ nửa hờ hững nửa mời gọi của cô gái càng làm cho vị sư trẻ bối rối hơn. Cả hai đều không biết rằng họ đang tạo ra mối liên kết thu hút lẫn nhau. Ham muốn đó cuối cùng đã trở thành những hành động cụ thể, vị sư trẻ đã ân ái cùng với cô gái, không chỉ một lần. Khi đón vị sư sư trẻ cùng với cô gái bơi thuyền lại, vị sư già khi ấy đang chấm nước viết lên phiến đá. Những hàng chữ tựa lý lẽ cao siêu huyền diệu đến giác ngộ mà viết lên bản ngã là cục đá trơ lỳ thì đương nhiên sẽ bay hơi rất nhanh. Vì đâu? Tại nước hay tại đá thì có lẽ phần nhiều sẽ cho rằng tại nước, bởi cục đá thì dễ dàng được nắm chắc trong tay, còn nước thì không như vậy.
Đêm hôm ấy, chú tiểu đã không đi qua cánh cửa mà bước qua sư phụ của mình sang chỗ nằm của cô gái. Sáng hôm sau biết chuyện, vị sư già không trách phạt nặng nề, ông chỉ nói rằng đó là lẽ tự nhiên và tiễn cô gái ra khỏi chùa bởi tâm bệnh đã dứt. Tuy nhiên vị sư trẻ đã trốn sư phụ để đi theo cô gái, mang theo chú gà cùng pho tượng Phật. Lại một lần nữa tự nhiên ban cho con người tự do và tước đoạt đi của con người chính tự do ấy. Dù thân thể đã rời khỏi chùa để đi đến nơi nó cần đến nhưng tâm trí vị sư trẻ đã vướng phải bi lụy. Chẳng hay thêm một thứ là được một thứ hay thêm một thứ là mất một thứ ?
Sau nhiều năm, vị sư già có một chú mèo để bầu bạn, ông đọc thấy trên báo tin truy nã một người đàn ông mắc tội giết vợ. Vị sư bình tâm sửa lại tấm áo cũ và chuẩn bị đón người học trò của mình trở lại. Anh ta quay lại nhưng tâm anh ta đã bị vô minh che phủ. Anh ta hung hăng thú nhận giết vợ vì cô ta ngoại tình, anh ta không thể tha thứ cho sự phản bội, anh ta mang theo con dao đã gây ra tội lỗi, anh ta nói rất nhiều về tình yêu mình dành cho cô gái để lý giải hành động. Thật khó tin anh ta là vị sư trẻ đã yêu cô gái vào mùa hè năm nào, tất cả dường như chỉ là sự đầu hàng bản năng, sự vị kỷ nhấn con người ta trong tam độc tham, sân, si. Giãi bày với sư phụ xong, anh ta trốn trong buồng và dán những miếng giấy có chữ “Bế” (đóng lại) lên mắt, mũi, mồm định sẽ tự sát. Nếu anh ta tin hành vi trừng phạt sự phản bội trong tình yêu là đúng đắn, tại sao anh ta lại đau khổ?
Vị sư già phát hiện ra, anh ta không chết nhưng bị một trận đòn. Ông không muốn đệ tử của mình chết để chuộc lỗi, ông muốn anh ta sống để nhận lỗi. Đành rằng sự dày vò ấy sẽ theo anh trọn kiếp nhưng vậy sẽ tốt hơn một linh hồn mãi không được siêu sinh, theo cách này hay cách khác thì nghiệp là một món nợ hay một phần thưởng là tùy vào cách người ta tạo ra nó.
Thế rồi, có hai viên thám tử tìm đến chùa để truy bắt chàng trai. Họ ngạo mạn, sắt đá, vững tin vào sứ mệnh thực thi công lý, trừng phạt kẻ có tội. Thế nhưng vị sư già không bỏ mặc đồ đệ của mình, cũng như tâm không bao giờ bỏ con người trước khi con người bỏ tâm. Ông dùng đuôi của chú mèo thay bút, chấm mực viết kinh Bát Nhã lên sàn để vị sư trẻ khắc theo, anh ta phải dùng chính con dao đã giết vợ để khắc. Khắc từng chữ, từng chữ liên tục trong đêm để kịp hoàn thành vào buổi sáng- thời hạn mà hai viên thám tử sẽ dẫn anh về chịu tội. Trong đêm ấy, vị sư trẻ trở lại là vị sư trẻ trước đây, vị sư già luôn là vị sư già còn hai viên thám tử tìm lại được tâm của mình khi quên đi ngạo mạn để thấy xót thương con người lầm lạc, họ đã lấy sơn tô màu cho bài kinh Bát Nhã khi vị sư trẻ khắc xong, họ không nhìn vị sư trẻ thông qua chủ kiến nữa mà là sự thông cảm giữa con người với con người. Bộ phim không dừng lại ở đó…
Câu chuyện mùa đông là tiền đề những gì sẽ xảy ra vào mùa xuân năm sau. Nhân quả cứ vậy liên miên nối tiếp nhau không dứt. Mặc dù nội dung phim vẫn còn nhưng nếu kể trọn ra đây thì lại thành biết rõ quá. Mà người cái gì cũng biết rõ là người chẳng biết rõ cái gì cả.
Vị sư già có nói: “Giết người thì dễ nhưng giết mình mới khó”, tức phá bỏ ngã chấp phải bắt nguồn từ việc sửa mình chứ không phải sửa người. Đây cũng là câu nói để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc nhất trong bộ phim.
"Xuân, hạ, thu, đông… lại xuân" thấm đẫm triết lý nhân sinh, khác lạ so với phong cách thường thấy của Kim Ki Duk và xứng đáng được liệt vào hàng kiệt tác điện ảnh.
Năm 2003, Kim Ki Duk ra mắt Xuân, hạ, thu, đông… lại xuân sau bảy năm xuất hiện trong nền điện ảnh Hàn Quốc đương đại và tám tựa phim - phần lớn vẽ nên những bức chân dung méo mó vì cuồng nộ, bạo lực và tình dục.
Tác phẩm thứ 9 của vị đạo diễn tài danh mang đến một sắc màu, và không khí hoàn toàn đối lập với những xô lệch, đổ vỡ của Cá sấu (1996), Tiểu đảo (2000) hay Kẻ cướp trái tim (2001).
Xuân, hạ, thu, đông… lại xuân xoay quanh cuộc đời lặng lẽ của một nhà sư và cậu học trò dưới mái chùa cổ. Ngôi chùa dựng lên giữa hồ nước trong vắt giữa rừng già, chỉ có độc hai hình bóng đi về. Mỗi lần cửa chùa mở ra đón khách, nó cũng để lọt vào bên trong không gian an tĩnh ấy biết bao nỗi khổ đau chốn hồng trần.
Tờ The New York Times của Mỹ từng ví Xuân, hạ, thu, đông... rồi lại xuân là một bộ phim đáng xem nhất của điện ảnh Hàn Quốc, và có lẽ, cũng là một bộ phim dịu dàng, triết lý nhân sinh sâu sắc, đáng xem nhất của chính Kim Ki Duk.
Bài học đầu đời là bài học về sự ăn năn
Như đã báo trước từ tên gọi, phim chia thành năm phần, tương ứng với sự vận động của thiên nhiên và đời người. Xuân tới hạ, hạ sang thu, thu chuyển đông, rồi mùa xuân quay về cũng như đời người sau sinh, lão, bệnh, tử lại đầu thai chuyển kiếp vào một mầm sống mới ra đời.
Bài học đầu đời mà người thầy giảng cho cậu trò nhỏ là gánh nặng của sự ăn năn. |
Trong mùa xuân đầu tiên, cậu trò nhỏ (Kim Jong Ho) và chú chó cưng ngày ngày nô đùa vui vẻ, lên núi hái rau, tìm thảo mộc. Cuộc sống cứ thế yên ả trôi đi, cho tới một ngày, bên bờ suối, đứa trẻ, với trí tò mò không gì cản nổi, đã phạm tội ác đầu tiên trong cuộc đời.
Cậu buộc đá cuội vào một con cá, một con cóc và một con rắn rồi thích thú nhìn chúng quằn quại trong đau đớn. Đêm đó, cậu thức giấc, nhận ra sau lưng mình đã buộc chặt một tảng đá to, nặng từ lúc nào. Nhờ thế, cậu thấu hiểu nỗi đau của cá, cóc và rắn khi bị hành hạ rồi tìm cách giải thoát cho chúng.
Nhưng chỉ ếch còn thoi thóp. Rắn và cá đã chết. Bên bờ nước, cậu òa khóc. Những giọt nước mắt thơ trẻ trôi đi, nhưng lời của vị sư già (Oh Young Soo) thì găm sâu vào trái tim cậu. Nếu một trong những con vật ấy chết, cậu sẽ phải mang hòn đá mình buộc lên lưng chúng trong tim suốt cuộc đời. Từ ngày hôm nay, mang theo bài học về sự ăn năn, cậu đã không còn ngây thơ.
Xem thêm: Sao băng ( phim sao băng diễn viên, sao băng (phim truyền hình hàn quốc)
Tam tự kinh viết: “Nhân chi sơ / Tính bản thiện / Tính tương cận / Tập tương viễn”, ngụ ý bản tính con người sinh ra vốn tốt đẹp, xấu tốt sau này đều do giáo dục và môi trường sống tác động mà thành.
Trong mùa xuân đầu tiên của Xuân, hạ, thu, đông… lại xuân, nếu không có lối giáo dục “trực quan” của vị sư già - để cậu bé tự nếm trải nỗi đau mình đã gây ra - thì biết đâu, mầm mống cái ác vừa cựa quậy trong tâm nó sẽ nảy mầm, lớn lên thành cỏ dại. Thằng bé sẽ lớn lên mà tự cho bản thân cái quyền chà đạp kẻ yếu, hay phớt lờ nỗi thống khổ của những thân phận xung quanh.
Tha thứ cho người, cũng là tự tha thứ cho mình
Xuân qua, hè tới... Cậu bé năm xưa đã ở tuổi thiếu niên (Seo Jae Kyung). Cùng lúc, một cô gái xin tới sống ở chùa để dưỡng bệnh. Mùa hè của trời đất, cũng là mùa chúng sinh rạo rực kết đôi. Cô gái đang ở tuổi mơn mởn xuân thì đã khơi dậy những ham muốn bản năng nơi chàng thiếu niên. Rồi, bởi không quên được ái tình, sắc dục, cậu học trò đã bỏ chùa theo cô.
Anh bỏ lại phía sau ngôi chùa, vị sư đã nuôi mình từ tấm bé và cả những lời ông răn dạy. Sự ra đi ấy, giống như cái hạt muốn lớn thành cây phải rời xa thân cành đã sinh ra nó, như lớp thanh niên bỏ quê ra đi để kiếm tìm tương lai tốt đẹp hơn, dường như đã là quy luật.
Chương mùa hạ trong Xuân, hạ, thu, đông... lại xuân là hành trình khám phá nhục dục, trước khi biết đến tình yêu, của nhân vật người học trò. |
Tới một mùa thu, cậu trở về. Chàng trai trẻ trung, căng tràn nhựa sống năm nào đã trở thành gã đàn ông bị cuộc đời mặc sức quăng quật, bóp nặn. Không những thế, gã còn đang bị truy nã.
Giống như cánh cửa gỗ của ngôi chùa, luôn rộng mở với khách dừng chân, bất kể thứ họ mang đến là hung hay cát, vị sư già lại dang tay đón gã đàn ông lầm lỡ. Một lần nữa, những gì ông đúc kết vào mùa hè năm ấy, “Nhục dục sinh ham muốn chiếm hữu, ham muốn chiếm hữu dẫn tới sát nhân”, lại vận vào cuộc đời người học trò.
Đau đớn, hổ thẹn, cùng quẫn trong ngày trở về, gã đàn ông toan tìm đến cái chết để giải thoát. Một lần nữa, vị sư già lại vào vai người thầy. Ông dùng đuôi mèo làm bút, chấm mực, viết Bát nhã tâm kinh lên sàn gỗ của mái hiên chùa rồi yêu cầu người học trò khắc theo những con chữ ấy. Ông dạy, mỗi nét khắc sẽ đẽo bỏ một phần sự cuồng nộ đeo bám trái tim anh ta.
Nếu trong mùa xuân đầu tiên, người thầy dạy cậu trò nhỏ bài học về sự ăn năn - thông qua hình ảnh hòn đá găm trong lòng - thì giờ ông dạy anh cách vứt bỏ một phần gánh nặng ấy.
Người đàn ông quỳ xuống, khắc từng con chữ Bát nhã tâm kinh mà thầy mình viết ra bằng mực đen trên hiên chùa. Anh đang xóa bỏ những vết nhơ quá khứ, thay thế nó bằng lời Tâm kinh dạy người ta sám hối ác nghiệp. Tha thứ cho người, cũng là tự tha thứ cho chính mình.
Tuần hoàn trời đất và vòng luân chuyển đời người
Mùa thu năm ấy, sau khi người học trò đã sám hối và để cảnh sát dẫn đi, vị sư già viên tịch. Nhiều năm qua đi, người học trò trở lại ngôi chùa cũ sau khi mãn hạn tù. Giờ anh đã ở tuổi trung niên (Kim Ki Duk).
Trong lòng con thuyền cũ, nơi anh và cô gái trẻ từng có cuộc truy hoan, người đàn ông tìm thấy di cốt của thầy mình. Anh an táng ông, rồi bắt đầu cuộc đời tu tập dưới mái chùa cũ tiêu điều.
Sau bao sóng gió cuộc đời, người đàn ông tìm về nương náu trong những giá trị mình từng một thời chối bỏ - sự sám hối, kỷ luật, và cuộc sống tĩnh tại xa lánh hồng trần. Một sự khai sáng không quá muộn màng, nhưng phải đánh đổi bằng quá nửa cuộc đời lầm lỡ và đôi tay đã nhúng chàm.
Đi hết nửa cuộc đời, người đàn ông tìm về với những giá trị mà thầy mình theo đuổi. |
Cánh cửa gỗ của ngôi chùa cũ, ngỡ sẽ không bao giờ mở ra, lại chào đón một vị khách lạ. Đó là người phụ nữ ôm theo đứa bé sơ sinh. Cô trao đứa bé cho người đàn ông, với niềm tin kỳ lạ, rằng nó sẽ được ông chăm sóc chu đáo. Trong đêm ấy, khi tìm cách rời đi trong im lặng, cô trượt ngã trên lớp băng phủ mặt hồ, rơi xuống nước và chết. Không ai biết, cũng chẳng ai hay.
Xuân, hạ, thu, đông… lại xuân khép lại trong ánh sáng của một mùa xuân mới. Chú bé mồ côi mẹ năm xưa giờ vào tuổi hiếu động, ham khám phá. Người học trò năm xưa giờ đã trở thành thầy, nhận trách nhiệm dìu dắt mầm non ấy.
Bên mép nước, chú bé lại bày trò tra tấn một con rùa, giống như những gì thầy mình đã làm năm nào. Mầm mống cái ác lại manh nha xuất hiện, như một phần tất yếu của biểu hiện tính người, dự báo một vòng lặp sự kiện mới.
Trong Xuân, hạ, thu, đông… lại xuân, thiền định và sự giác ngộ biến mọi hỷ, nộ, ai, lạc của đời người thành hư vô. Yếu tố bạo lực và sự bi quan thường thấy trong các tác phẩm trước đó của Kim Ki Duk cũng hoàn toàn vắng bóng.
Ông gắn nhịp vận động vô hạn của đất trời với đời người hữu hạn, để rồi mỗi cuộc đời hữu hạn ấy lại trở thành mắt xích trong chuỗi không đầu cuối mang tên nhân loại. Xuân, hạ, thu, đông… lại xuân ngập tràn những hình ảnh về vòng lặp vĩnh hằng của sự sống.
Cây cỏ ra lá, đơm hoa, tàn úa theo nhịp điệu của mùa, con người sinh ra, lớn lên, vấp ngã, chiêm nghiệm, đúc kết và trao truyền thành quả tri thức ấy cho thế hệ cháu con.
Đó không nhất thiết phải là sự nối dài về mặt sinh học, khi ta sinh ra đời những đứa trẻ mang một phần mã di truyền của mình. Nó nên là sự trao truyền và kế thừa nhân sinh quan, thế giới quan, hệ tư tưởng cũng như tấm lòng vị tha và sự bao dung tha thứ, từ thầy sang trò, từ tiền nhân tới hậu bối, từ kẻ đã trả giá cho sai lầm tới người mới bước chân vào đời với tấm lòng giấy mới.